[3] Elston, T. (2013). Developments in UK executive agencies: Re-examining the ‘disaggregation–reaggregation’ thesis. Public Policy and Administration, 28(1), 66–89. https://doi.org/10.1177/0952076711432580
Theo số liệu từ Văn phòng Nội các, ngày 31/3/2020 tại Anh có 295 cơ quan “cánh tay nối dài” của các Bộ, trong đó, có 38 cơ quan thực thi điều hành (Executive Agencies); 237 cơ quan “bán tự trị”/cơ quan không thuộc các Bộ và 20 cơ quan không thuộc Bộ trưởng các Bộ. Đến năm kế hoạch 2022 - 2023, tổng số có 301 cơ quan, trong đó, có 38 cơ quan thực thi điều hành (Executive Agencies); 243 cơ quan “bán tự trị”/cơ quan không thuộc các Bộ và 20 cơ quan không thuộc Bộ trưởng các Bộ.
Các cơ quan thực thi độc lập ở nước Anh có thể bao quát nhiều loại hình hoạt động, trên các lĩnh vực đa dạng, như: Các cơ quan tư vấn; các tổ chức chuyển giao và thiết kế chương trình; các cơ quan an toàn và quy định; các tổ chức văn hóa; các cơ quan nghiên cứu, đổi mới và phát triển… Theo số liệu từ Văn phòng Nội các, hiện tại, số lượng nhân sự làm việc tại các Bộ Trung ương và các cơ quan “cánh tay nối dài” tổng số là hơn 633 nghìn người, trong đó, riêng các cơ quan độc lập, thực thi là hơn 385 nghìn người.
Các cơ quan thực thi độc lập này cũng thường xuyên được đánh giá, từ năm 1981 cho tới nay đã tiến hành 4 đánh giá ở các giai đoạn: 1981 - 2002 (đánh giá 05 năm một lần); 2010 - 2015 (đánh giá 03 năm một lần) và 2015 - 2020 (Các chương trình đánh giá được thiết kế riêng). Hiện nay, Chính phủ đang có Chương trình tổng thể đánh giá hoạt động của các cơ quan độc lập cho cả giai đoạn 2022 - 2025. Các cuộc đánh giá với mục đích để trả lời cho 05 câu hỏi, đó là: Các cơ quan độc lập này có thực sự cần thiết? Công việc của các cơ quan này có tốt không? Hoạt động có đảm bảo hay không? Ai là người chịu trách nhiệm cho hoạt động của các cơ quan này? Và Có hiệu quả hay không?
* Cơ quan thực thi tại Scotland
Các cơ quan thực thi, một loại hình tổ chức trong khu vực công được phân cấp, theo đó, Chính phủ Scotland hoặc Nghị viện Scotland chịu trách nhiệm và có mối quan hệ trực tiếp. Các cơ quan thực thi đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ công ở Scotland, đóng góp đáng kể vào việc cung cấp các kết quả và mục tiêu quốc gia được nêu trong Khung hiệu suất quốc gia. Các cơ quan thực thi thực hiện các vấn đề ưu tiên của Bộ trưởng hoặc Nghị viện thông qua việc thúc đẩy, cung cấp, tài trợ và giám sát các dịch vụ hoặc bằng cách cung cấp tư vấn chuyên môn, khách quan cho Bộ trưởng, Nghị viện, công chúng và những người cung cấp dịch vụ công. Hiện nay, ở Scotland có 131 cơ quan thực thi, khoảng 225 nghìn nhân sự (trong đó, có khoảng 43 nghìn nhân viên làm việc tại các cơ quan dịch vụ y tế quốc gia), chi tiêu 23 tỷ bảng Anh một năm. Các cơ quan thực thi ở Scotland bao gồm các loại hình cơ quan chủ yếu sau:
- Các cơ quan điều hành thực thi (Executive Agencies), đây là một phần của Chính phủ Scotland, nhưng hoạt động với một mức độ độc lập nhất định (ví dụ các cơ quan như: Dịch vụ nhà tù Scotland; Giao thông vận tải Scotland);
- Các cơ quan phi bộ trưởng (Non-Ministerial Offices): Các cơ quan này hoạt động độc lập với các bộ trưởng. Các cơ quan này thường được Nghị viện tài trợ và được yêu cầu công bố báo cáo hoạt động và kế toán tài chính hàng năm giống như mà các cơ quan của Chính phủ Scotland phải thực hiện. Ví dụ các cơ quan này, như: Dịch vụ tòa án và xét xử Scotland; Văn phòng quản lý từ thiện Scotland.
- Các cơ quan phi bộ điều hành (Executive Non-Departmental Public Bodies - NDPB): Các cơ quan này được thành lập theo luật định và hoạt động độc lập với các bộ trưởng. Các cơ quan này thực hiện các chức năng hành chính, thương mại, điều hành hoặc quản lý thay mặt cho Chính phủ; và hoạt động trong khuôn khổ quản trị và trách nhiệm giải trình do Bộ trưởng đặt ra. Ví dụ bao gồm Hiệp hội doanh nghiệp Scotland và Sáng tạo Scotland.
Ngoài ra, ở Scotland còn có một số cơ quan khác có liên quan trực tiếp đến Chính phủ hoặc Nghị viện Scotland, cũng được gọi là các cơ quan thực thi, độc lập như: Các doanh nghiệp nhà nước; các cơ quan y tế công/dịch vụ sức khỏe quốc gia (NHS); cơ quan thuộc Nghị viện (Kiểm toán Scotland) và một số cơ quan khác.
3. Những gợi mở về các điều kiện, yêu cầu đảm bảo tổ chức thực hiện cơ quan thực thi ở Việt Nam
Trong điều kiện thực tiễn ở nước ta, cơ quan thực thi vẫn còn khái niệm tương đối mới và chủ yếu được đề cập đến trong một số diễn đàn, các nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, chủ động hội nhập quốc tế, bộ máy nhà nước cũng được cải cách toàn diện trên tất cả các mặt.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính ổn định, đồng bộ và sự thành công của quá trình cải cách, không phải mọi việc được triển khai cùng lúc mà được làm từng bước, có ưu tiên, vừa có khâu trọng tâm, vừa có khâu đột phá. Theo đó, việc xã hội hóa các dịch vụ công cũng là một trong những đề xuất để tách bạch rõ hơn giữa quản lý hành chính nhà nước của cơ quan hành chính và cơ quan cung cấp dịch vụ.
Có thể nói, đây cũng là đòi hỏi khách quan, cần thiết phải được thực hiện trước và quyết liệt để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Xã hội hóa được hiểu là chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho các khu vực ngoài nhà nước; huy động đóng góp và động viên sự tham gia rộng rãi của công dân và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công và Nhà nước là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm đáp ứng nhu cầu của nhân dân ở mức cao nhất với bất kỳ hình thức cung ứng nào([4]).
Ở đây, việc xã hội hóa cho phép các cơ sở ngoài công lập được cung cấp một số loại dịch vụ công mà Nhà nước không cấm và được liên kết với các đơn vị sự nghiệp công lập trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch công. Về bản chất, các dịch vụ công là những hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người dân mà việc sản xuất, cung cấp không trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là điểm khác biệt cơ bản với dịch vụ hành chính công.
Hoạt động quản lý nhà nước có hai lĩnh vực liên quan chặt chẽ với nhau, đó là xây dựng, ban hành chính sách quốc gia (được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật để trở thành cơ chế quản lý) và tổ chức thi hành chính sách, thực thi pháp luật để quản lý, điều hành các hoạt động xã hội.
Những đề xuất về đổi mới dịch vụ công lần đầu tiên được xuất hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Cộng sản Việt Nam (khóa VIII), sau đó, được khẳng định tại Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ X. Quán triệt tinh thần cơ bản trên, Quốc hội đã đưa khái niệm này vào Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, trong đó quy định: “Bộ máy hành chính nhà nước có ba chức năng cơ bản: chức năng quản lý nhà nước, chức năng cung cấp dịch vụ công và chức năng thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật”.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 của Chính phủ khẳng định: song song với việc cải cách thủ tục hành chính, cần chuyển cho các tổ chức xã hội hoặc cá nhân, doanh nghiệp làm những dịch vụ công ích có thể. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo dịch vụ công cho nhân dân, nhưng không phải vì thế mà mọi dịch vụ công đều phải do Nhà nước trực tiếp đảm nhận([5]) .
Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X năm 2007 về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” có nêu các chủ trương, giải pháp, trong đó có giải pháp về “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước”, theo đó, “Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lí nhà nước trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lí nhà nước về kinh tế, xã hội cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Tập trung làm tốt hơn việc hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách, xây dựng giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lí thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra”...; “Làm rõ chức năng quản lí nhà nước của cơ quan hành chính và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp, phân cấp mạnh cho các đơn vị sự nghiệp về sử dụng ngân sách, kinh phí, tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ”.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc xã hội hóa các dịch vụ do Nhà nước cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ công của người dân nhanh hơn, nhiều hơn, giảm tải cho một số cơ quan nhà nước khi cung cấp dịch vụ tới người dân là một chủ trương, việc làm có ý nghĩa to lớn giúp thúc đẩy nền hành chính công Việt Nam hoạt động hiệu quả. Nghị quyết 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 một mặt đưa dịch vụ hành chính công là một trong những trọng tâm để nâng cao chất lượng, mặt khác đã xác lập nhiệm vụ của cả hệ thống hành chính nhà nước để nâng cao chất lượng dịch vụ công, đó là: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh”.
Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã đặt ra việc tổ chức tinh gọn bộ máy, hoạt động có tính chuyên nghiệp, chuyên sâu. Đồng thời, Nghị quyết 18-NQ/TW cũng quy định: “Các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ chủ động rà soát, sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên trong, giảm cơ bản số lượng tổng cục, cục, vụ, phòng; không thành lập tổ chức mới, không thành lập phòng trong vụ, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền quyết định. Giảm tối đa các ban quản lý dự án. Kiên quyết hợp nhất, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập để thu gọn đầu mối, giảm biên chế; thực hiện cơ chế khoán kinh phí theo nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra. Chuyển một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm”.
Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 cũng nêu nhiệm vụ của cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn tới, đó là: “Tiếp tục thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm”.
Như vậy, việc hình thành các cơ quan thực thi có tính độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo có ý nghĩa quan trọng. Vấn đề thực thi có hiệu quả chính sách đòi hỏi cần có các thiết chế phù hợp. Câu hỏi đặt ra ở đây đó là những thiết chế phù hợp nào cho tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi chính sách? Việc xây dựng các thiết chế mới sẽ gia tăng quy mô của bộ máy nhà nước, đồng thời, nếu hình thành tổ chức mới cũng sẽ ngược với chủ trương của Đảng và Nhà nước về tinh gọn tổ chức bộ máy. Do vậy, việc thể chế hóa những quy định của Đảng và Nhà nước về tìm kiếm những giải pháp, mô hình của một tổ chức để đảm nhiệm các nhiệm vụ mà nhà nước không nhất thiết phải làm đang đặt ra cho thời gian tới. Việc đưa những dịch vụ, công việc mà nhà nước trước đây thực hiện để cung cấp cho người dân, tổ chức đến một cơ quan, tổ chức độc lập với hệ thống hành chính nhà nước đảm nhiệm đã có những thiết chế bước đầu. Chúng ta tìm kiếm mô hình mới hay sử dụng hệ thống các cơ quan đang hiện hữu cũng là nội dung cần nghiên cứu. Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng các thiết chế đang có, để có những thử nghiệm ban đầu từng bước hình thành hệ thống cơ quan thực thi phù hợp cũng đóng vai trò quan trọng.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thực thi, cần các điều kiện, yêu cầu bảo đảm tổ chức thực hiện như:
Thứ nhất, cần có sự quyết tâm của toàn bộ hệ thống chính trị về ý nghĩa, sự cần thiết của hệ thống các cơ quan thực thi. Đồng thời, cũng cần có các quy định pháp lý cần thiết, thể chế hóa cụ thể tạo cơ sở cho việc hình thành các cơ quan độc lập hoặc tạo ra sự đổi mới căn bản cho việc các cơ quan thuộc Chính phủ có đủ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức thực thi, khẳng định vai trò cơ quan thực thi của các cơ quan này.
Thứ hai, xác định rõ các yêu cầu, điều kiện bảo đảm về tổ chức bộ máy. Cần tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp thuộc và trực thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ hiện tại liên quan đến cung ứng dịch vụ công và nhiệm vụ liên quan thực thi. Trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan thuộc Chính phủ cũng cần có quy định về các đơn vị cấu thành có chức năng, nhiệm vụ liên quan đến thực thi và các chức năng, nhiệm vụ vốn có. Có thể nghiên cứu, cần thiết hình thành các đơn vị thực thi trong cơ quan thuộc Chính phủ. Xác định và lựa chọn những dịch vụ cần thiết được cung cấp cho người dân, tổ chức bởi các cơ quan thực thi độc lập, trên cơ sở đó, làm căn cứ để thành lập hoặc chuyển đổi các cơ quan thực thi.
Thứ ba, xây dựng những thiết chế thật cụ thể về các nguồn lực cho thành lập và tổ chức hoạt động của các cơ quan thực thi. Trên cơ sở thực hiện các quy định về tự chủ trong suốt thời gian vừa qua, có lẽ cần xác định nguồn lực tài chính cho việc hình thành cơ quan thực thi độc lập.
Theo đó, đây là phải một mô hình tổ chức độc lập, tự chủ hoàn toàn về kinh phí tổ chức thực hiện. Việc hình thành các đơn vị thực thi gắn liền với quá trình cơ cấu lại các tổ chức thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, cần đảm bảo không làm phát sinh đơn vị mới, không gia tăng quy mô nhân sự, sử dụng nhân sự hiện tại để thực hiện nhiệm vụ thực thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan thuộc Chính phủ cần rà soát lại hiện trạng nhân sự, xác định vị trí việc làm phù hợp cho nhiệm vụ mới, xây dựng khung năng lực cho nhân sự ở các đơn vị thực thi để tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ. Nhân sự làm nhiệm vụ thực thi phải thực sự am hiểu chính sách, có năng lực tổ chức thực hiện chính sách. Tất nhiên, nhân sự làm việc tại các cơ quan thực thi này thực hiện theo cơ chế ký hợp đồng, có đánh giá thường xuyên, trọng tâm là sự hài lòng của đối tượng được nhận cung cấp dịch vụ.
Thứ tư, xây dựng thiết chế giám sát nội bộ đối với quá trình thực thi, nhằm đảm bảo quá trình thực thi đạt được mục tiêu, đi đúng định hướng chính sách, pháp luật. Cơ chế giám sát được thực hiện trước, trong và sau quá trình thực thi để quá trình thực thi đạt mục tiêu như mong đợi.
Thứ năm, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan độc lập thực thi. Người đứng đầu cơ quan thực thi là biên chế nhà nước, được bổ nhiệm bởi các cấp có thẩm quyền tùy thuộc vào vị trí của cơ quan thực thi trong quá trình thành lập hay là chuyển đổi ở mô hình là các cơ quan thuộc Chính phủ. Ví dụ người đứng đầu cơ quan thực thi nếu là cơ quan thuộc Chính phủ phải chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật và trước Thủ tướng Chính phủ về chất lượng, hiệu quả, tiến độ của việc triển khai nhiệm vụ thực thi, để đảm bảo không có độ trễ giữa xây dựng chính sách và thực thi chính sách. Nếu người đứng đầu cơ quan thực thi độc lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ thì chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng.
Thứ sáu, xây dựng lộ trình và đầu tư nguồn lực cho quá trình thực thi mà trọng tâm là hiệu quả về mục tiêu, hiệu quả về kinh tế, xã hội. Quá trình phân giao nhiệm vụ thực thi cho các cơ quan thuộc Chính phủ có thể thực hiện thí điểm trong ngắn hạn, đánh giá hiệu quả, xác định các vấn đề phát sinh trước khi thực hiện phân giao chính thức cho các cơ quan này đảm nhận vai trò cơ quan thực thi.
Thứ bảy, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm thực tiễn của các nước đã tổ chức thực hiện và thành công trong thực hiện mô hình cơ quan thực thi, độc lập, từ đó có những khuyến nghị cụ thể, phù hợp cho quá trình áp dụng và triển khai trong thực tiễn ở Việt Nam. Khi triển khai cũng cần thông tin, tuyên truyền về ý nghĩa, vai trò và sứ mệnh của cơ quan thực thi trong việc chuyển tải những dịch vụ công tốt nhất tới người dân, tổ chức và cộng đồng xã hội./.
Vụ Cải cách hành chính - Bộ Nội vụ
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 17-NQ/TW Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
2. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
3. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”.
6. Chính phủ, Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 về Tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030.
7. Chính phủ, Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.47.
9. Tạp chí Tổ chức Nhà nước điện tử, Chuyển giao dịch vụ hành chính công cho các doanh nghiệp, tổ chức xã hội đảm nhiệm - thực trạng và những vấn đề đặt ra
10. Phạm Việt Dũng, Xã hội hóa dịch vụ công tiếp cận dưới góc độ sở hữu, Tạp chí cộng sản điện tử (25/11/2021)
11. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công – Những vấn đề cơ bản, NXB Chính trị quốc gia – sự thật (tr. 17).
12. PGS TS Vũ Minh Khương, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, ĐHQG Singapore, Bài trình bày tại Hội thảo “Quản trị công và nền công vụ hướng tới tương lai: Kinh nghiệm của Singapore và một số gợi ý đối với Việt Nam” (Tháng 12/2018).
13. Christopher Pollitt, Performance Management in Practice: A Comparative Study of Executive Agencies, Journal of Public Administration Research and Theory, Volume 16, Issue 1, January 2006, Pages 25–44
14. Elston, T. (2013). Developments in UK executive agencies: Re-examining the ‘disaggregation–reaggregation’ thesis. Public Policy and Administration, 28(1), 66–89. https://doi.org/10.1177/0952076711432580
15. The Next Steps Initiative, Report by the Comptroller and Auditor General, Ordered by the House of Commons to be printed 6 June 1989.
16. James, O. Moseley, A., Petrovsky, N. and Boyne, G. 2011. 'Agencization in UK', in Verhoest K., van Thiel S., Bouckaert G. and Laegreid P. (eds ) (2011), Government agencies in Europe and beyond: Practices and lessons from 30 countries, Chapter 6: United Kingdom.
17. Performance-based organizations, Lessons From the British Next Steps Initiative, Statement of J. Christopher Mihm, Acting ssociate Director Federal Management and Workforce IssuesGeneral Government Division, United States General Accounting Office, For Release on DeliveryExpected at 9:30 a.m. EDT Tuesday July, 1997.
18. Excutive Agencies: A guide for departments 2015.
19. Budding, T. and Klink, J. (2020), "The influence of parliamentarians on the development of financial management regulations for executive agencies", Journal of Public Budgeting, Accounting & Financial Management, Vol. 32 No. 3, pp. 421-438. https://doi.org/10.1108/JPBAFM-05-2019-0085.
[4] Phạm Việt Dũng, Xã hội hóa dịch vụ công tiếp cận dưới góc độ sở hữu, Tạp chí cộng sản điện tử (25/11/2021)
[5] Ngô Thành Can, Hoàng Sỹ Kim, Nguyễn Quốc Tuấn (2013), Tổng quan về nghiên cứu khoa học hành chính, NXB Lao động, Hà Nội (trang 371).